Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa hư hoá
chừ 時
◎ Nôm: 諸 Đọc âm THV. Mối quan hệ ch- (THV) ~ th- (AHV), x. chua. Nguyên chữ thì nghĩa là “thời giờ”, lưu tích còn trong bây chừ (= bây giờ). Sau, thì được hư hoá, (như thời, thì), cũng như vậy, chừ đã được hư hoá khá sớm. Phiên khác: chữ (ĐDA), chưa (BVN), chờ (TVG, MQL). PL (2012: 223) phiên “chừ” với nghĩa “giờ, thời điểm đang nói (Génibrel 1898). chừ rắp để bình: giờ sắp sửa cho vào bình”.
p. <từ cổ> từ đệm giữa câu, thường dùng để dịch chữ “hề” trong phú cổ. Cành khô gấp bấy nay nên củi, hột chín phơi chừ rắp để bình. (Bảo kính 151.4). Chữ “chừ” chuẩn đối với “bấy”, đều là hai hư từ, làm từ nước ở giữa câu.
cứ 據
đgt. <từ cổ> dựa theo, căn cứ vào. Sách Tả Truyện ghi: “Thần ắt dựa vào ta” (神必據我). Sách Luận Ngữ ghi: “Dựa vào đức” (據于德). Được thua cứ phép làm thằng mặc, cao thấp nài nhau tựa đắn đo. (Bảo kính 152.3). Trong tiếng Việt hiện nay, “cứ” được hư hoá, ví dụ “cứ theo đó mà làm”, “anh cứ nói mãi”.
hơn 欣
tt. có ưu thế hơn, trái với thiệt. (Ngôn chí 20.7)‖ (Bảo kính 155.7, 174.8)‖ Hơn thiệt đành phần sự chớ liều, được nhàn ta ắt sá tiêu diêu. (Tự thuật 116.1).
p. từ dùng để so sánh, đang trong quá trình hư hoá. Phú quý lòng hơn phú quý danh, thân hoà tự tại, thú hoà thanh. (Tự thán 83.1, 89.8, 111.3)‖ (Bảo kính 136.3, 142.3, 147.3, 147.6, 163.2, 175.4, 187.2)‖ (Mai thi 224.2)‖ (Miêu 251.3).
không 空
dt. không trung, trên trời. Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không, xem ắt lầm một thức cùng. (Thuỷ trung nguyệt 212.1). x. hư không, sắc không, tay không.
tt. hư ảo. Nguyệt mọc đầu non kình dỏi tiếng, khói tan mặt nước thẩn không lầu. (Ngôn chí 19.4). Đành hay thương hải đòi thì biến, đà biết nhân gian mọi sự không. (Thuật hứng 62.6)‖ (Bảo kính 130.8).
đgt. không có. (Mạn thuật 29.5)‖ Túi đã không tiền, khôn chác rượu, vườn tuy có cúc, chửa đâm hoa. (Quy Côn Sơn 189.3).
tt. ở trạng thái không đựng gì bên trong, trống. Sầu nặng thiếu lăng biên đã bạc, hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không. (Thuật hứng 50.4): x. Bắc Hải.‖ (Bảo kính 139.5).
p. hết, sạch. Chặm tự nhiên lều một căn, giũ không thảy thảy tấm hồng trần. (Tự thán 102.2)‖ (Bảo kính 178.8). Ss đối ứng kʼoŋ (4 thổ ngữ Mường), căŋ (16 thổ ngữ). ở thế kỷ XV, “không” mới bắt đầu hư hoá, lúc này, chưa được dùng như một phó từ phủ định, còn “chăng”, “chẳng”, “chưa”, “chửa” (gốc Việt-Mường) và “khôn” (gốc Hán) vẫn đang khá phổ dụng.
nên 𢧚
◎ Ss đối ứng reiɳ1 (muốt), ɗeiɳ (nàbái), rein1 (chỏi), deiɳ1 (khẻn) [PJ Duong 2012: 9].
đgt. thành (thường có danh từ đứng sau). Lảo thảo chưa nên tiết trượng phu, miễn là phỏng dạng đạo tiên nho. (Ngôn chí 3.1, 11.6, 12.6, 21.7)‖ (Mạn thuật 35.6)‖ (Trần tình 41.5)‖ (Trần tình 43.6)‖ (Thuật hứng 58.4, 62.4)‖ (Tự thán 75.6, 81.3, 103.1)‖ (Tự thuật 114.2, 142.2, 148.5, 151.3, 173.3, 183.1, 185.3)‖ (Tích cảnh thi 199.1, 203.3)‖ (Lão mai 215.1)‖ (Nhạn trận 249.2).
đgt. khiến cho. Phúc dầu hay đến trăm tuổi, mình thác thì nên mọi của tan. (Bảo kính 134.8).
đgt. thành ra, trở nên (thường có tính từ đứng sau). Sự có cầu người nên rẻ mặt, phận tuy rằng khó miễn yên lòng. (Thuật hứng 56.3)‖ nên đang hư hoá. Thân nên nhẹ. (Mạn thuật 30.5)‖ Mỗ nên hư. (Mạn thuật 34.4)‖ Nên đầm ấm. (Thuật hứng 47.5)‖ Tóc nên bạc. (Tự thuật 112.5)‖ Cầm nên lặng. (Tự thuật 121.5)‖ Nên quý giá. (Bảo kính 135.3, 136.5, 148.1, 161.3, 166.6, 174.5, 176.5).
đgt. làm bổ ngữ kết quả, thành (thường đứng sau động từ trước danh từ). Tà dương bóng ngả khuở giang lâu, thế giới đông nên ngọc một bầu. (Ngôn chí 14.2, 19.6)‖ (Tự thán 96.1)‖ (Tự thuật 117.4)‖ (Thuỷ trung nguyệt 212.3)‖ (Bảo kính 154.3)‖ (Lão mai 215.4).
đgt. làm bổ ngữ kết quả, được, (thường đứng sau đgt., trước dt). Thiên thơ án sách qua ngày tháng, một khắc cầm nên mấy lạng vàng. (Thuật hứng 55.8)‖ Muốn ăn trái, dưỡng nên cây (Bảo kính 137.1).
đgt. từ trỏ ý khuyên răn. (Mạn thuật 36.6)‖ (Tự thán 88.2)‖ Uổng có thân nhàn cực thửa nuôi, ghe đường dại dột mỗ nên xuôi. (Tự thán 106.2).
k. từ trỏ hệ quả, kết nối với nguyên nhân ở vế trước. Tài lẹt lạt nhiều, nên kém bạn, người mòn mỏi hết, phúc còn ta. (Ngôn chí 8.5)‖ (Bảo kính 141.2, 163.3, 171.5)‖. x. cho nên, x. vì chưng.
thà 𪰛
tt. đúng, lưu tích còn trong thực thà (thực = thà) [Huệ Thiên 2006: 17-26], thà gốc Việt, thực/ thật gốc Hán. Sau này, thà đã hư hoá, như “chẳng thà: …chẳng đành” [Paulus của 1895: 969]. Cơm kẻ bất nhân ăn ấy trớ, áo người vô nghĩa mặc chăng thà. (Trần tình 39.4).
đam 󰝡
◎ Âm cổ của “đem”. Ss đối ứng tam, dam (21 thổ ngữ), tliəŋ (3 thổ ngữ) [NV Tài 2005: 220], đăm [H Hựu 2012: 76]. x. gánh.
đgt. <từ cổ> đem, mang. “đam, đam đi, đam ra, đam đàng” [Rhodes 1651 tb1994: 82]. (Thuật hứng 64.4)‖ (Tự thán 83.4)‖ (Bảo kính 143.5)‖ Của nhiều, sơn dã đam nhau đến, khó ở, kinh thành thiếu kẻ han. (Bảo kính 133.5), dịch câu bần cư náo thị vô nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu khách tầm 貧居鬧市無人問 , 富在深山有客尋 “nghèo ở chợ đông không ai hỏi, giàu ở non sâu có kẻ tìm” (theo tăng quảng hiền văn). giàu sang lắm kẻ lại nhà, khó nằm giữa chợ chẳng ma nào nhìn. cd
đgt. <từ cổ> mang cái gì ra làm, dịch cấu trúc [ 以 … động từ], hoặc [bả 把 …động từ], có xu hướng hư hoá. Liều cửa nhà xem bằng quán khách, đam công danh đổi lấy cần câu. (Mạn thuật 30.4)‖ (Bảo kính 128.4)
đà 已
◎ Nôm: 它 / 㐌 AHV: dĩ. nghĩa gốc là “dừng, thôi” (đgt.); Kinh Thi có câu: “gà gáy không ngừng” (雞鳴不已), Quảng Nhã ghi: “Dĩ: hoàn thành” (已成也). Sau mới hư hoá thành phó từ thời gian. Lý Bạch có câu: “đôi bờ tiếng vượn kêu không dứt, thuyền con đà vượt mấy trùng non” (兩岸猿聲啼不盡,輕舟已過萬重山) [Hán Ngữ Đại Tự Điển 1995: 984].
p. đà là âm Việt hoá của đã. Việc gả đà đã ← 嫁事已訖 (Phật Thuyết 22a1). Thân đà hết luỵ, thân nên nhẹ, Bụt ấy là lòng, Bụt khá cầu. (Mạn thuật 30.5, 34.3)‖ (Thuật hứng 60.4, 62.6)‖ (Tự thán 74.8, 77.2, 81.7, 85.7, 97.7, 107.7)‖ (Tự thuật 112.7)‖ (Bảo kính 146.1, 162.4, 168.7, 177.4, 179.2, 180.5)‖ (huấn nam 192.7)‖ (Trừ tịch 194.3)‖ (Thu nguyệt 198.1)‖ (Tích cảnh thi 203.4)‖ (Lão mai 215.7)‖ (Đào hoa thi 231.3)‖ (Lão dung 239.3)‖ (Nghiễn trung ngưu 254.5). x. đã.
đừng 停
AHV: đình. Đọc âm HHV. đình nghĩa gốc là dừng. đình > dừng, hư hoá thành đừng.
pt. HVVD chớ. Dỉ sứ chim xanh đừng chốc lối, bù trì đã có khí hồng quân. (Đào hoa thi 228.3).
khôn 困
◎ Nôm: 坤 AHV: khốn, âm phiên thiết: “khổ côn thiết, âm khôn” (苦昆切,音坤). [Khang Hy tự điển: 217] Trong Hán văn, “khôn” / “khốn” trỏ việc “khốn khó”, “nghèo khốn”, “nguy khốn”, “nguy nan”. Vào tiếng Việt, ngữ tố này đã được hư hoá.
tt. HVVD. <từ cổ> khó, “khôn cùng: khó cùng, không cùng, không hết. Không kể: khó kể, không kể được. Khôn xiết: khó xiết, không hết, không kể cho cùng. Khôn ví: không lẽ sánh, khó sánh” [Paulus Của 1895: 499]. Kỳ, ký, nô, thai đà có đấy, Kẻ dìn cho biết lại khôn thay. (Tự thuật 112.8).
đgt. <từ cổ> khó có thể. (Thủ vĩ ngâm 1.5)‖ (Ngôn chí 6.6)‖ Cuốc cằn ước xáo vườn chư tử, Thuyền mọn khôn đua bể lục kinh. (Ngôn chí 7.4)‖ (Mạn thuật 36.6)‖ (Trần tình 37.3)‖ (Thuật hứng 49.6, 65.5 68.4)‖ (Tự thán 87.4)‖ (Tự thuật 113.4, 118.2)‖ (Bảo kính 137.3, 142.5, 150.4, 156.6, 180.6)‖ (Quy Côn Sơn 189.3)‖ (Tích cảnh thi 199.1, 201.2)‖ (Thủy thiên nhất sắc 213.5)
p. <từ cổ> không [Paulus Của 1895: 499]. Chớ cậy sang mà ép nè, Lời chăng phải vuỗn khôn nghe. (Trần tình 44.2).